Đám cưới của Henriette Bùi Quang Chiêu. Ảnh tư liệu
Với tấm bằng tốt nghiệp trong tay, Henriette về nước và bắt đầu bước vào con đường lập nghiệp trong lĩnh vực y tế, nơi mà ở đó, đội ngũ y bác sĩ người Việt còn hiếm hoi, chứ chưa nói đến là nữ bác sĩ.
Bên cạnh đó là cả sự coi thường của những đồng nghiệp Pháp với đồng nghiệp Việt lúc bấy giờ, gần như ở bất kỳ lĩnh vực nào. Năm 1935, ở tuổi 29, Henriette nhận chức trưởng khoa Hộ sinh ở Bệnh viện Chợ Lớn.
Vượt mọi định kiến, đòi lẽ công bằng
Bước chân vào nghề là lúc Henriette đem tâm huyết cùng kiến thức chuyên môn của mình và tình yêu với nghiệp cứu người để tham gia vào nghề “từ mẫu” giữa lúc nền y tế nước Việt còn mang nặng tính cổ truyền.
Người dân phần nhiều còn xa lạ với nhà thương, bệnh xá cũng như phương pháp chữa bệnh khoa học bằng Tây y. Và đâu chỉ thế, bà còn đối diện với nhiều khó khăn khác từ chính nghề của mình bởi chính những đồng nghiệp khác màu da.
Dạo ấy, nước nhà bị người Pháp đô hộ, nên trong con mắt của người Pháp với người An Nam cũng có những phân biệt hẹp hòi. Sự kỳ thị, khinh miệt từ những đồng nghiệp người Pháp với đồng nghiệp An Nam; sự bất công về tiền lương cho y bác sĩ Việt so với đồng nghiệp Pháp,...
Tất cả những điều đó, Henriette đều vượt qua bằng lòng yêu nghề và sự tự tôn dân tộc, bằng sự đấu tranh trực diện với cấp trên để yêu cầu những quyền lợi chính đáng cho y bác sĩ Việt, cho bệnh nhân người Việt.
Henriette Bùi Quang Chiêu. Ảnh tư liệu
Tỉ như có lần giám đốc bệnh viện là người Pháp, đã yêu cầu bà phải mặc váy đầm với lý do như thế mới nhận được sự kính trọng và bình đẳng hơn trong mắt đồng nghiệp người Pháp, nếu không bà sẽ bị lầm tưởng bà là một “bà mụ đỡ đẻ” hơn là một bác sĩ sản khoa.
Tuy nhiên, với lòng tự trọng của bản thân, lòng tự tôn dân tộc, bà khước từ yêu cầu ấy mà vẫn ăn mặc như một người Việt Nam.
Trong quãng đời 44 năm gắn bó với nghề y, Henriette lúc làm việc ở Việt Nam, lúc sang Pháp hành nghề. Bà còn nâng cao tay nghề khi sang Nhật Bản năm 1957 học châm cứu để áp dụng có hiệu quả cho ngành sản khoa. Đến năm 1961, Henriette sang Pháp sinh sống và tiếp tục nghề y với phòng mạch của mình.
Sau này khi về nước, năm 1970, bà tình nguyện phục vụ không lương trong ngành hộ sản và nhi khoa tại Bệnh viện Phú Thọ rồi năm 1971, bà lại sang lại Pháp tiếp tục làm nghề y đến năm 1976. Bà mất vào ngày 27-4-2012 tại Paris, thọ 106 tuổi.
Không chỉ tận tâm với nghề, Henriette còn hiến tặng biệt thự tư gia của bà ở số 28 đường Testard làm cơ sở cho Trường ĐH Y khoa Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Nơi ấy, nay là địa điểm thuộc Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở đường Võ Văn Tần, TP.HCM.
Biệt thự tư gia của Henriette Bùi Quang Chiêu ở số 28 đường Testard. Ảnh tư liệu
Về phần đời riêng, Henriette qua sự sắp đặt của cha, đã kết duyên với luật sư Vương Quang Nhường, đảng viên của Đảng Lập hiến. Cuộc hôn nhân này đã thu hút sự chú ý của dư luận lúc đó. Thế nhưng vì không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, thiếu sự chia sẻ nên duyên cầm sắt cũng chỉ có hai năm, hai người chia tay năm 1937.
Sau này khi ở Pháp đầu thập niên 1960, bà gá nghĩa với ông Nguyễn Ngọc Bích trong tình yêu đến từ hai phía. Tiếc rằng, ông Bích bị ung thư vòm họng rồi mất vài năm sau khi hai người thành vợ chồng.
Bình luận